Sau chiến tranh Erich_von_Manstein

Xét xử

Tháng 10 năm 1945, Manstein được di chuyển tới Nürnberg, nơi ông làm nhân chứng bào chữa cho Bộ Tư lệnh Tối cao và Bộ Tổng tham mưu trong phiên tòa xét xử tội phạm chiến tranh năm 1946. Tại Nürnberg, ông hợp tác với Thượng tướng Kỵ binh Siegfried Westphal biên soạn và trình bày một văn kiện dài 132 trang vào tháng 8. Cùng với hồi ký "Chiến thắng bị đánh mất" (Verlorene Siege) của Manstein về sau, văn kiện này đã sản sinh huyền thoại về một quân đội Đức "trong sạch", không nhúng tay vào những tội ác diệt chủng của đảng phát xít. Ông cũng đưa ra lời khai về hoạt động của các Tổ Công tác SS, về việc đối xử với tù binh. Về tính phục tùng của quân đội; đặc biệt là mối liên hệ giữa tinh thần này với Sắc lệnh Chính ủy do Hitler ban hành năm 1941, yêu cầu mọi chính ủy, chính trị viên Xô Viết phải bị bắn mà không qua xét xử. Manstein thừ nhận rằng ông đã nghe mệnh lệnh này, nhưng ông không thực thi nó.[147] Các tài liệu từ năm 1941 được trình diện ở Nürnberg và phiên tòa xử Manstein về sau này đã phủ định tuyên bố của ông: trên thực tế, ông thường xuyên nhận báo cáo về hàng trăm vụ hành quyết chính ủy, chính trị viên trong suất mùa hè năm 1941.[148] Ông cũng cam đoan không hề hay biết về tội ác của các Tổ Công tác SS, và làm chứng là bộ đội của ông không dính líu vào các vụ tàn sát dân Do Thái.[149] Tuy nhiên, trong lời khai của chính Manstein, Tổ trưởng Tổ Công tác D Otto Ohlendorf quả quyết rằng Manstein biết các hành vi tàn bạo trên và Tập đoàn quân số 11 đã tích cực tiếp tay cho chúng.[150] Vào tháng 9 năm 1946, Bộ Tư lệnh Tối cao và Bộ Tổng tham mưu được xác nhận không phải là tổ chức tội ác chiến tranh.[151]

Sau lời khai của Manstein ở Nürnberg, ông bị giam giữ trong Trại giam đặc biệt số 11 ở Bridgend, Wales. Ông thường trao đổi thư từ với sử gia quân sự nổi tiếng người Anh B. H. Liddell Hart, một người rất khâm phục Manstein và khen ông là nhà chỉ huy thiên tài. Hai người giữ liên lạc với nhau sau khi Manstein rời trại giam, sau này Liddell Hart đã giúp Manstein hoàn chỉnh phiên bản tiếng Anh của hồi ký Verlorene Siege năm 1958.[152][153] Dưới sức ép từ Liên Xô, vào tháng 7 năm 1948, chính phủ Anh quyết định khởi tố Manstein vì các tội ác chiến tranh của ông. Phiên tòa xét xử ông được tổ chức ở Hamburg từ ngày 23 tháng 8 đến ngày 19 tháng 12 năm 1949.[154] Manstein bị cáo buộc về 17 tội danh, bao gồm 3 tội ở Ba Lan và 14 tội ở Liên bang Xô Viết. Các buộc này xoay quay những hành vi ngược đãi tù binh, tiếp tay cho các Tổ Công tác SS thảm sát người Do TháiBa LanKrym, làm khổ cư dân Liên Xô bằng chiến thuật "tiêu thổ" trên đường rút khỏi nước này.[155] Kết thúc phiên tòa, Manstein bị khép vào 9 tội danh và bị tuyên án 18 năm tù.[156]

Phán quyết này đã làm dấy lên những phản ứng gay gắt trong giới hâm mộ Manstein ở cả Anh lẫn Đức. Với sự cộng tác của Liddell Hart, đoàn bào chữa Manstein vận động dư luận Anh kêu gọi ân xá cho Manstein. Tại Đức, người ta coi bản án này là một động cơ chính trị. Mức án của Manstein được giảm xuống 12 năm tù vào tháng 2 năm 1950.[157][158] Năm 1951, Luật sư Reginald Thomas Paget - Trưởng đoàn bào chữa cho Manstein - đã xuất bản một cuốn sách bán chạy nói về sự nghiệp và phiên tòa của Manstein, trong đó Manstein được khắc họa là một quân nhân chân chính, đã anh dũng chiến đấu chống kẻ thù có quân số áp đảo và bị xử án oan ức.[159] Quyển sách đã góp phần làm tăng sự ngưỡng mộ dành cho Manstein ở Anh.[159] Ông được phóng thích vào ngày 7 tháng 5 năm 1953, một phần vì lý do sức khỏe, nhưng một phần là do sức ép mạnh từ Thủ tướng Anh Winston Churchill, Thủ tướng Liên bang Đức Konrad Adenauer Konrad Adenauer cùng Liddell Hart, Paget và nhiều cảm tình viên khác.[160][161] Ngày nay, việc Manstein có biết các tội ác tày trời của đảng phát xít hay không, và nếu biết thì ông có đủ can đảm để chống đối hay không, vẫn còn là vấn đề tranh cãi.[162]

Cuối đời

Vài tuần sau khi ra tù, Manstein nhận lời mời thăm chính thức tổng hành dinh Tập đoàn quân Rhine (Anh) ở Bad Oeynhausen trong một động thái nhằm hòa giải mối quan hệ Anh-Đức. Cùng với 10 cựu sĩ quan cấp cao khác, ông được Thủ tướng Adenauer vời làm cố vấn cho Bộ Quốc phòng Cộng hòa Liên bang Đức vào các năm 1955 – 1956. Trên cương vị này, ông đã có nhiều đóng góp cho việc xây dựng và phát triển các lực lượng vũ trang Liên bang Đức.[163][5]

Quyền hồi ký về chiến tranh của ông, cuốn Verlorene Siege (tạm dịch: "Chiến thắng bị đánh mất"), được xuất bản tại Liên bang Đức năm 1955 và được dịch sang tiếng Anh năm 1958. Trong đó, Manstein đã đưa ra luận điểm rằng nếu các tướng lĩnh của Đức phụ trách về mặt chiến lược chứ không phải là Hitler, thì cuộc chiến tại Liên Xô đã có thể giành được chiến thắng.[164][165] Vợ chồng Manstein đã thay đổi chỗ ở vài lần sau khi ông được trả tự do năm 1953. Họ sinh sống ở EssenBonn một thời gian rồi định cư hẳn ở München năm 1958. Cùng năm đó, ông phát hành tập 2 của hồi ký Verlorene Siege với nhan đề Aus einem Soldatenleben ("Đời lính"). Tập 2 này mô tả cuộc đời Manstein trong giai đoạn từ năm 1887 đến năm 1939.[166] Vợ ông là Jutta Sibylle von Manstein qua đời năm 1966[167].

Erich von Manstein qua đời trong một cơn đột quỵ tại Irschenhausen, Bayern vào đêm ngày 9 tháng 6 năm 1973, hưởng thọ 85 tuổi. Tang lễ ông được tổ chức trọng thể theo nghi thức quân đội, và hàng trăm quân nhân ở mọi cấp bậc đã tham dự lễ tiễn đưa ông về nơi an nghỉ cuối cùng.[168] Lời cáo phó của ông được đăng trên nhật báo Anh The Times ngày 13 tháng 6 năm 1973 như sau "Ảnh hưởng và tác động của ông đến từ sức mạnh của tâm thức và chiều sâu của tri thức, hơn là phát sinh từ khả năng tạo nên một luồng nhiệt điện trong quân đội hoặc gây ấn tượng về tính cách của mình." (His influence and effect came from powers of mind and depth of knowledge rather than by generating an electrifying current among the troops or "putting over" his personality.)[169]. Tạp chí Spiegel (Đức) cũng khen ngợi Manstein là "một trong những nhà chiến lược vĩ đại cuối cùng trong quân sử", nhưng phê phán ông vì "lòng trung thành mù quáng" mà "tiếp tay cho con đường đi đến thảm họa" của nước Đức.[170]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Erich_von_Manstein http://www.nybooks.com/articles/2604 http://www.time.com/time/covers/0,16641,19440110,0... http://www.wehrmacht-awards.com/campaign_awards/sh... http://www.historisches-centrum.de/forum/schroeder... http://www.spiegel.de/spiegel/print/d-42001458.htm... http://www.history.army.mil/books/OpArt/index.htm http://amh.freehosting.net/manstein.html http://www.hdot.org/en/trial/defense/pl1/10.html http://ibiblio.org/hyperwar/UN/UK/UK-NWE-Flanders/... //www.worldcat.org/oclc/16731799